Cau:
Phan tich Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ.
5.2.3.1. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp pháp , hợp hiến.
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập sáu vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề thứ ba là: "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu" để sớm có một nhà nước hợp hiến do dân bầu ra. Ngày 20-9-1945, Người ký sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để chuẩn bị đệ trình Quốc hội. Uỷ ban gồm 7 vị, do Người là Trưởng ban.
Mặc dù những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Đây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được kể từ sau khi lật đổ ách thống trị thực dân, đưa lực lượng chính trị của nhân dân lên cầm quyền.
5.2.3.2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, vì pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản Yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật.
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập
pháp. Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo
Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký Lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh
và nhiều văn bản dưới luật khác…5.2.3.1. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp pháp , hợp hiến.
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập sáu vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề thứ ba là: "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu" để sớm có một nhà nước hợp hiến do dân bầu ra. Ngày 20-9-1945, Người ký sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để chuẩn bị đệ trình Quốc hội. Uỷ ban gồm 7 vị, do Người là Trưởng ban.
Mặc dù những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Đây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được kể từ sau khi lật đổ ách thống trị thực dân, đưa lực lượng chính trị của nhân dân lên cầm quyền.
5.2.3.2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, vì pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản Yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật.
Một mặt, chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác, Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: lúc dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hoá khá cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.