Câu: Hoàn cảnh ra đời và vai trò của NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN
Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam ,
thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ
một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự
thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết
sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên
tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần
Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của
Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra
quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước
đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân
tộc.
Trong
bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ
quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất
Thành- Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin; đây không chỉ là bước
ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước
ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho
Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng
cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc
ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam,
Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lê nin vào trong nước, đưa
phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào
yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập
ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia
Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc
Đính.
Ngày
1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương
Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị dó
không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ
Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày
25-7-1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ
trong một thời gian ngắn ở Việt Nam
đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất
yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam . Song sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn
Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam , người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp
ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản
duy nhất ở Việt Nam .
Từ
ngày 03 đến 07-02-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia
Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu DDCSD);
Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp.
Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều
lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội
thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước;
là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết
quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập
thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam , chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng
thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai
cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn
luyện Đảng ta
No comments:
Post a Comment